Trước đây tôi cũng có dịp hỗ trợ kỹ thuật cho dự án DBRP liên quan đến công việc triển khai khoản vốn vay 5 triệu USD của IFAD thông qua VBARD Cao Bằng. Do đó cũng may mắn được tham gia nhiều cuộc họp với VBARD từ TW đến địa phương. Xin phép được đóng góp một số ý kiến cùng các anh chị dưới góc nhìn của cá nhân.
Trong tiểu hợp phần về Tài chính nông thôn của dự án DBRP (Cao Bằng, Bến Tre) khi đó được phân bổ khoảng 5 triệu $ cho mỗi tỉnh đối với nguồn vốn cho vay thông qua VBARD. Ngoài ra trong thiết kế cũng có đề cập đến 1 khoản Bảo lãnh vốn vay (Loan Assurance) khoảng 200,000$ (Grant) kèm theo hướng dẫn thực hiện cho từng tỉnh. Tuy nhiên, dường như khoản Grant này đã bị bị bỏ quên khá lâu, thậm chí theo ý kiến của một số chuyên gia thì nó không thực sự có ý nghĩa nên đã được đề nghị chuyển sang mục đích khác. Cá nhân tôi không đồng tình với quyết định đó và cũng đã một số lần đề xuất phương án thay thế theo hướng bảo lãnh cho những người không đủ điều kiện vay vốn được tiếp cận đến nguồn dự án tại VBARD. Tuy nhiên do nhiều lý do khách quan mà đề xuất đó đã không được thông qua.
Trở lại khoản vay 5 triệu USD thông qua VBARD, đây là nguồn vay của chính phủ với lãi suất thời điểm đó khoảng 0,75%/năm (rất thấp). Tuy nhiên khoản vay được chuyển từ Bộ Tài chính sang VBARD TW (cho vay lại), VBARD tỉnh, VBARD các huyện và đến tay người vay thì lãi suất dao động từ 15%-19% tùy từng loại sản phẩm vay vốn tại thời điểm những năm 2011.
VBARD là một ngân hàng, để đem một sản phẩm vốn vay đến tay người dân họ phải vận hành một hệ thống với vô vàn chi phí. Do đó lãi suất qua mỗi khâu được đẩy lên là hoàn toàn hợp lý bởi vì đó là bài toán kinh tế. Nguồn IFAD có thể xem là một nguồn huy động “chi phí thấp” đối với ngân hàng, nhưng nó thực sự rất nhỏ so với các nguồn vốn khác của VBARD. Thực chất VBARD ở TW và các tỉnh phải trả chi phí vay lại từ 5,4% đến 6,5% cũng không chênh nhiều so với mức lãi suất bình quân 7% tại thời điểm 2011 đối với các nguồn khác.
Khi gặp gỡ các cán bộ lãnh đạo và nhân viên VBARD tôi đều nhận thấy thiện chí rất tốt từ họ và trăn trở sao cho có thể sử dụng hiệu quả tốt nhất nguồn vốn này; Gặp người dân thì ai cũng kêu là lãi suất cao; Gặp cán bộ dự án thì kêu “oải” vì tiến độ giải ngân chậm, hoặc nếu có thì sai đối tượng, sai mục đích…tóm lại là ai cũng mệt. Tôi rất nhất trí với quan điểm thiết kế dự án là “Hỗ trợ kinh doanh” thì đương nhiên cần giúp người dân thông suốt quan điểm vay vốn với lãi suất cao, chỉ khi nào có bản kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi và sống chết với nó thì những áp lực từ vay vốn sẽ không còn là trở ngại. Mặc dù vậy, tôi đã có lần phỏng vấn rất nhiều cán bộ dự án, cán bộ nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp nhưng câu trả lời đều là “ở đâu lãi thấp hơn thì tôi sẽ vay ở đó”. Câu trả lời này hoàn toàn hợp tình hợp lý vì dại gì mà vay lãi cao. Hầu hết chúng ta là những người có nhiều mối quan hệ, có nhiều kiến thức hơn người nông dân, thậm chí ở góc độ nào đó có thể nói là “khôn hơn” họ một chút…nhưng cũng đều không dễ chấp nhận khoản vốn vay với lãi suất cao như thế, trừ những người đang rất cần tiền và không có lựa chọn nào khác. Nhất là khoản vay này dành cho việc “phát triển kinh doanh”.
Câu chuyện tài sản đảm bảo (collateral) cũng là một trở ngại đối với khoản vay này. Theo văn kiện dự án thì người dân sẽ được VBARD cho vay “không cần tài sản đảm bảo” mà chỉ thông qua tín chấp bởi Hội phụ nữ, Hội nông dân…Phía ngân hàng cũng có các quy định hấp dẫn về vay vốn không cần đảm bảo lên đến 50 triệu/ hộ hoặc 500 triệu/ HTX (DN). Tuy nhiên thuật ngữ “không cần tài sản đảm bảo” đã được hiểu không giống nhau giữa IFAD và VBARD. Theo IFAD thì bất cứ người nghèo nào có bản kế hoạch SXKD khả thi sẽ được phía VBARD tạo điều kiện cho vay (thông qua tổ nhóm và tín chấp của HPN, HND), điều này có vẻ rất hợp lý hợp tình. Phía VBARD mặc dù đã ký Biên bản ghi nhớ với IFAD đồng ý về cho vay không cần tài sản đảm bảo nhưng theo quy định từ phía ngân hàng thì tài sản đảm bảo được hiểu là thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu của tài sản từ phía người vay sang cho ngân hàng. Đối với các khoản vay nguồn IFAD, người dân sẽ không cần làm thủ tục chuyển nhượng, cầm cố tài sản, nhưng các tài sản đó (sổ đỏ, giấy tờ có giá trị) vẫn sẽ phải được lưu giữ ở ngân hàng. Như vậy thì với người dân không có quyền sở hữu tài sản có giá trị vẫn sẽ không thể vay vốn, đó chính là rào cản.
Cho dù giải thích theo bất cứ “triết lý tài chính vi mô” nào thì một khoản vay mà bất cứ ai liên quan đến nó đều cảm thấy áp lực và không hài lòng (VBARD, IFAD, Người dân…) thì rõ ràng đó là một triết lý chưa thuyết phục. Theo tôi chỉ cần giải quyết được 3 điểm mấu chốt thì các khoản vay của IFAD sẽ phát huy tác dụng tối đa: (i) Người dân vay vốn hài lòng về chất lượng và giá cả của dịch vụ; (ii) Đối tác triển khai thấy thoải mái, dễ dàng và không làm trái với các quy định của ngành; (iii) Cán bộ dự án không còn phải lo lắng về tiến độ giải ngân, đối tượng thụ hưởng cũng như ý nghĩa của nguồn hỗ trợ đối với người dân.
Sau này, khi chuyển sang môi trường làm việc mới, tôi cũng vẫn tiếp tục được làm việc với các Quỹ TK-TD từ nguồn dự án nhưng với quy mô nhỏ hơn. Từ những kinh nghiệm của nguồn vốn vay trong câu chuyện kể trên chúng tôi đã cùng đối tác đưa ra nhiều sự thay đổi đáng kể để phần nào chứng minh được “triết lý” đơn giản mà tôi đã nêu là hoàn toàn có giá trị. Tôi có một vài điểm mấu chốt xin được đóng góp để các anh chị cân nhắc như sau:
- Lãi suất: Cần có sự linh hoạt đối với các loại hình sản phẩm khác nhau:
- Vay tiêu dùng thì nhất định lãi suất phải thấp mới có sức hấp dẫn. Nhưng đảm bảo lãi suất đã được tính toán một cách hợp lý trên cơ sở Kế hoạch kinh doanh của các quỹ (hoặc từ phía ngân hàng). Điều này tránh việc lãi suất quá thấp khiến ngân hàng bị lỗ, người dân ỷ lại vào nguồn viện trợ của nhà nước hoặc nếu quá cao thì người vay bị thiệt hại nặng.
- Vay sản xuất kinh doanh: Vấn đề cốt lõi đối với dự án là hỗ trợ người dân phát triển sản xuất kinh doanh, chứ không phải thu tiền lãi về làm giàu cho dự án. Do vậy cũng không nhất thiết phải đẩy người dân vào áp lức vay vốn lãi suất cao hơn mức cần thiết (cho dù có thể đó là cách thử thách sự cam kết của người vay). Hãy tôn trọng luật chơi chung, hãy cạnh tranh lành mạnh về lãi suất với các ngân hàng thương mại trên thị trường. Lãi suất đủ duy trì hệ thống nhưng không quá thấp, cũng không được cao quá vì khi đó người dân sẽ vay chỗ khác.
- Bảo lãnh vay vốn: Với những người có tài sản thì việc vay vốn đối với họ không phải là rào cản. Vì vậy cần tìm hiểu sâu hơn về khó khăn của những người không có gì trong tay, những hộ nghèo kiệt quệ, tài sản nếu có thì cũng đang cắm ở ngân hàng, thanh niên muốn lập nghiệp nhưng đang sống phụ thuộc vào gia đình…Những đối tượng này nếu có đề án sản xuất kinh doanh khả thi thì hãy bảo lãnh để họ được vay vốn và giúp họ (kỹ thuật, thị trường) thực hiện ý tưởng đó một cách tốt nhất. Đó mới là sự hỗ trợ thiết thực.
- San sẻ rủi ro: Thử hình dung một người dân nghèo (không có tiền, hiểu biết ít, kinh nghiệm chưa có nếu như làm cái gì đó mới mẻ, ít các mối quan hệ…) khi gặp rủi ro thì họ vẫn là người duy nhất phải gánh chịu hậu quả, phía ngân hàng sẽ có nhiều phương án xử lý từ việc phong tỏa tài sản đảm bảo/ cầm cố cho đến việc san sẻ từ các nguồn dự phòng đã trích. Khi đó người dân sẽ mất hết tài sản, mất niềm tin và sẽ không bao giờ dám nghĩ đến việc tiếp tục “phát triển sản xuất kinh doanh”. Ngoài ra, khi xảy ra rủi ro thì liệu dự án có dám sẵn sàng gánh vác hậu quả cùng với người dân? Chỉ khi đó chúng ta mới có đủ tự tin để thuyết phục người dân hãy mạnh dạn làm ăn, hãy mạnh dạn vay vốn. Hiện tại chúng tôi đang áp dụng cơ chế san sẻ 50% rủi ro bất khả kháng đối với các khoản vay của thanh niên dành cho khởi nghiệp (nếu như được bên thứ 3 đánh giá khách quan).
Bài viết chủ yếu dựa vào hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân, các thông tin trích dẫn cũng đã lạc hậu nên chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự chia sẻ của các anh chị!
Phạm Vinh – 11/5/2017